Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
về ý chí tự lực, tự cường và phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm
của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay
Tổ đảng Văn phòng – Ban Tuyên giáo
Trong thời gian qua, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tại Chi bộ cơ quan Đảng ủy Khối Dân Chính Đảng thành phố đã từng bước đi vào nề nếp, tạo chuyển biến trong nhận thức và hành động, góp phần thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng tại Chi bộ.
Thực hiện Kế hoạch số 11-KH/CB ngày 06/5/2024 của Chi bộ về học tập, quán triệt và sinh hoạt chuyên đề năm 2024. Tổ đảng Văn phòng - Ban Tuyên giáo xây dựng Chuyên đề “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay”, cụ thể:
1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế
Trong khi hầu hết các đảng cộng sản ở Châu Âu đều có quan điểm cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng ở các nước tư bản (chính quốc), cách mạng ở các nước thuộc địa không thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa thắng lợi thì Nguyễn Ái Quốc không tán thành quan điểm đó. Người cho rằng, với ý chí, khát vọng đấu tranh mãnh liệt, bất khuất vì độc lập, tự do, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không.
 Bác thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng. Người nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công phải tự lực cánh sinh, “Dựa vào sức mình là chính”, độc lập, tự chủ, không trông chờ, ỷ lại, phụ thuộc vào bên ngoài, “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Hay trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945; Bác đã viết: Hỡi đồng bào yêu quý! “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ”.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!
Hoặc trong Lời kêu gọi trong dịp 1.000 ngày kháng chiến (22/6/1948)
“Mỗi một người dân phải hiểu: Có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”.
Đây là một chân lý.
Lệ thuộc vào người khác, nước khác, không bao giờ độc lập, tự do được.
Thứ hai, ý chí tự lực, tự cường là phát huy vai trò, sức mạnh của Nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, nhưng không phải ở đâu và bất cứ lúc nào quần chúng Nhân dân cũng làm được cách mạng. Muốn làm được cách mạng, quần chúng Nhân dân phải được giác ngộ, vận động, tổ chức, rèn luyện. Như vậy mới có thể huy động, tập hợp, phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của mọi lực lượng quần chúng trên cùng một mặt trận, biến ý chí tự lực, tự cường của quần chúng thành sức mạnh cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”, “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, Nhân dân cũng làm được”. Vì vậy, Người luôn nhấn mạnh phải động viên lực lượng của toàn dân, có dân là có tất cả. Vì vậy, Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh.
Thứ ba, ý chí tự lực, tự cường là có sự tổ chức chặt chẽ, có phương pháp cách mạng đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng
Để tiến hành cách mạng thì điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh có sức mạnh lôi cuốn và tập hợp tất cả các lực lượng trong một tổ chức chặt chẽ, “Để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Ngày 03/02/1930, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam khi đó (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) đã tổ chức Hội nghị hợp nhất thành một Đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng đánh dấu bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng dân tộc, trở thành nhân tố tiên quyết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dẫn dắt, lãnh đạo Nhân dân từng bước đấu tranh, chuẩn bị các điều kiện mọi mặt, đưa tới sự thành công của cách mạng. Tinh thần tự lực, tự cường, có sự tổ chức chặt chẽ, có phương pháp cách mạng đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Ngay sau khi giành độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đứng trước tình thế vô cùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với toàn Đảng đã sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác gềnh, bảo vệ Đảng và giữ vững chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đường lối kháng chiến “Toàn dân”, “Toàn diện”, “Trường kỳ”, “Dựa vào sức mình là chính”. Ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù; đặc biệt, là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (năm 1954) chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước (từ năm 1975 đến nay), đặc biệt là thành tựu đạt được trong hơn 37 năm đổi mới, tứ năm 1986 đến nay có thể khẳng định rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Thứ tư, ý chí tự lực, tự cường là kết hợp nội lực và ngoại lực, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, nhưng đồng thời “Phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa Nhân dân ta với Nhân dân các nước bạn, Nhân dân Pháp, Nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Nói cách khác, phải biết kết hợp khéo léo, chặt chẽ giữa phát huy sức mạnh nội lực và sức mạnh ngoại lực, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa mọi nguồn lực thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng.
Người chỉ rõ, sức mạnh nội lực, sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh, giữ vai trò quyết định; sức mạnh ngoại lực, sức mạnh thời đại là nguồn lực từ bên ngoài, quan trọng, bổ trợ, gia tăng thêm sức mạnh của dân tộc, phát huy tác động thông qua nguồn lực từ bên trong.
Người khẳng định: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải đoàn kết với các dân tộc áp bức, giai cấp công nhân các nước tư bản và lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Trong cuộc đấu tranh cách mạng, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc được coi là nền tảng sức mạnh nội sinh, có thể huy động, tập hợp được hết thảy các giai tầng xã hội đoàn kết trên một mặt trận, đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như bảo vệ vững chắc nền độc lập đó.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (năm 1941) do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp, đoàn kết rộng rãi các giai tầng, tổ chức, đoàn thể cứu quốc, thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh cuộc vận động giải phóng dân tộc. Đồng thời, nhanh nhạy nắm bắt diễn biến của tình hình quốc tế, tranh thủ thời cơ thuận lợi, sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, xúc tiến khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là minh chứng sống động nhất về sự kết hợp nội lực và ngoại lực, dân tộc và thời đại, trở thành nhân tố quy tụ, thúc đẩy, kết tinh mọi nguồn lực trong và ngoài, đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Thứ năm, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ, giữ vững nền độc lập dân tộc; phát huy tinh thần lao động sáng tạo, xây dựng, phát triển đất nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, “Nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế, quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Nhờ phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, quyết tâm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chúng ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng; làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng của ý chí, khát vọng độc lập và khí phách Việt Nam.
Lịch sử tiếp tục chứng kiến những thách thức cam go về ý chí và khát vọng độc lập dân tộc qua cuộc đối đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ. Trước một cuộc chiến tranh khốc liệt, trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cao quyết tâm trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Người nói: “Phải giành thắng lợi quyết định trong một thời gian, ta không nói mấy năm, mấy tháng, mấy ngày, nhưng trong một thời gian càng ngắn càng tốt”.
Để khích lệ, thôi thúc ý chí đấu tranh đến ngày đất nước toàn thắng, thống nhất trong mỗi người dân, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.
Tin tưởng vào sự thắng lợi tất yếu của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong bản Di chúc, Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Chiến thắng lịch sử 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước một lần nữa khẳng định sự thắng lợi của ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, ý chí tự lực, tự cường quyết tâm giữ vững nền độc lập của dân tộc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc tiếp tục được Đảng ta phát huy trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sau giải phóng đến nay.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường.
Với tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực, tự cường ở Hồ Chí Minh luôn bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn về con người, hạnh phúc của người dân, của quốc gia dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc đã đạt nhiều kỳ tích chói lọi, làm nên Cách mạng tháng Tám, khai sinh nền độc lập, mở ra thời đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đã và đang mang lại những thay đổi lớn là do Đảng biết quy tụ, khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, tiếp tục phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh đối với sức mạnh nội sinh: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
3. Vận dụng đối với cán bộ, đảng viên, nhằm phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm.
Trong bối cảnh hiện nay, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm. Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy vậy, hiện tại nước ta vẫn là nước “Đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp”, có khoảng cách khá xa với các nước phát triển, 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta nhận định vẫn hiện hữu, công cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị trong Đảng và xã hội mới đạt được kết quả bước đầu... Hơn lúc nào hết, thực tiễn phát triển nhanh, bền vững, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có đủ đức, đủ tài, có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện các nguyên tắc và hoạt động của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phải hội đủ những phẩm chất dám nghĩ, dám làm, dám nói, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo và sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt hành động vì lợi ích chung. Trong đó, phẩm chất đầu tiên đòi hỏi ở mỗi cán bộ, đảng viên chính là dám nghĩ, dám làm.
Cán bộ dám nghĩ, dám làm là người luôn luôn vận động, luôn trăn trở để tìm ra những cách làm mới, hướng đi mới phù hợp thực tiễn, mang lại lợi ích chung, vì tập thể. Có thể cách làm đó ban đầu sẽ gặp những trở ngại, rào cản, nhưng người cán bộ vẫn quyết tâm để chứng minh tính đúng đắn của nó. Cán bộ dám nghĩ, dám làm còn là cán bộ không đùn đẩy trách nhiệm, thấy khó không né tránh, dám chịu trách nhiệm về những việc làm của mình. Trên thực tế, chúng ta vẫn thấy có những cán bộ có tâm lý sợ mắc sai lầm, khuyết điểm, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không dám đối diện với những khó khăn, vướng mắc mà thực tế đặt ra.
Trong khi đó, tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, vì lợi ích chung vẫn còn gặp những rào cản; những lo ngại về quy định chưa hoàn thiện, pháp luật chồng chéo, một số điểm chưa rõ ràng, chưa phù hợp thực tiễn. Trong lịch sử, ở mỗi thời kỳ đều có những cán bộ năng động, đổi mới, sáng tạo, song cũng có giai đoạn khi cơ chế chưa tháo gỡ, họ phải chịu nhiều hệ lụy tiêu cực, thậm chí bị kiểm điểm, kỷ luật.
Thời gian qua, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý trong thực tiễn cho thấy còn tồn tại một số vấn đề đặt ra, từ đó đòi hỏi phải phát huy hơn nữa tinh thần dám nghĩ, dám làm.
Thứ nhất, tính trông chờ ỷ lại của một số cán bộ, đảng viên vẫn còn khá phổ biến.
Thứ hai, tâm lý đùn đẩy trách nhiệm, an phận thủ thường của một số cán bộ, đảng viên trở thành rào cản lớn.
Thứ ba, hay bàn lùi, cản trở những người dám nghĩ, dám làm, dám nói, dám đột phá, sáng tạo.
Từ những biểu hiện đó, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường cần được vận dụng tích cực. Mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên, gương mẫu hành động, làm việc vì lợi ích chung, từ đó tìm tòi, suy nghĩ tìm ra các giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.
4. Thực trạng tại Chi bộ cơ quan Đảng ủy Khối Dân Chính Đảng thành phố
4.1. Ưu điểm
Trong thời gian qua, cán bộ, đảng viên Chi bộ có lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng. Luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chấp hành tốt việc học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; phát huy tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, tự soi, tự sửa để nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chấp hành đúng Quy định về những điều đảng viên không được làm.
Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; các quy chế, nội quy của Chi bộ, cơ quan và địa phương nơi cư trú. Phát huy vai trò, trách nhiệm, tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Sẵn sàng nhận và nỗ lực để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; không đùn đẩy, né tránh công việc; cầu thị, lắng nghe; sâu sát cơ sở, luôn luôn giữ thái độ bình tĩnh, hòa nhã, ân cần khi tiếp xúc với đồng chí, đồng nghiệp và cán bộ, đảng viên đến liên hệ công tác. Qua đó, cán bộ, đảng viên trong Chi bộ đã tham mưu Ban Thường vụ Đảng ủy Khối thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao, cụ thể:
+ Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối đã tham mưu đổi mới công tác tuyên truyền, quán triệt như: Tổ chức các hội nghị trực tuyến; cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết sát với nhiệm vụ của cơ quan; đề ra các giải pháp theo dõi, nắm bắt tình hình triển khai, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, cũng như tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên tại các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc qua Zalo; đổi mới công tác bồi dưỡng lý luận chính trị.
+ Ban Tổ chức Đảng ủy Khối đã tham mưu đổi mới công tác quản lý đảng viên; đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ như: Tổ chức sinh hoạt Chi bộ mẫu; tổ chức Hội thi Bí thư chi bộ giỏi.
+ Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối tham mưu đổi mới chất lượng hoạt động công tác kiểm tra, giám sát như: Tổ chức nhiều hội nghị tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phụ trách công tác kiểm tra, giám sát tại cơ sở; ban hành nhiều văn bản hướng dẫn nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát.
+ Văn phòng Đảng ủy Khối đổi mới chất lượng phục vụ, nhất là phục vụ các hội nghị do Ban Thường vụ Đảng ủy Khối chủ trì.
+ Đoàn Khối tổ chức nhiều hoạt động phong trào đoàn gắn với các chủ trương của Đảng, nhất là công tác chuyển đổi số.
Nhìn chung, các hoạt động đã phát huy hiệu quả, trong đó đã thể hiện được vai trò, trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên Chi bộ với ý chí tự lực, tự cường dám nghĩ, dám làm, đổi mới, sáng tạo đã góp phần xây dựng Chi bộ cơ quan cũng như Đảng ủy Khối cơ quan Dân Chính Đảng thành phố trong sạch, vững mạnh.
4.2. Hạn chế
Một số cán bộ, đảng viên đôi lúc chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, tiên phong, gương mẫu, vẫn còn hiện tượng đi trễ về sớm, chưa thực hiện đúng nội quy, quy chế của cơ quan; trong công tác tham mưu chưa nghiên cứu sâu các văn bản hướng dẫn của cấp trên dẫn đến chất lượng hoàn thành nhiệm vụ chưa cao. Trong một số nhiệm vụ, công tác tham mưu chỉ dừng lại ở một số nội dung, hoạt động nhất định, còn quá thận trọng, chưa dám đột phá, dám nghĩ, dám làm trước yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
4. Giải pháp
Để có thể vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không “Sợ sai”, “Sợ khuyết điểm” cần có các giải pháp toàn diện, căn cơ và quyết liệt hơn, cụ thể như:
Thứ nhất: Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự tu dưỡng, rèn luyện để có đầy đủ phẩm chất, tư tưởng, đạo đức, lối sống, năng lực hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ hai: Tiếp tục phát huy trí tuệ, bản lĩnh, dám đấu tranh với tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Rà soát, chấn chỉnh, khắc phục những biểu hiện đùn đẩy, né tránh, sợ sai không dám làm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đồng thời, khắc phục tư tưởng “3 không” của một bộ phận cán bộ hiện nay, đó là “Không nói, không tham mưu đề xuất, không triển khai hoặc triển khai cầm chừng”, vừa làm, vừa nghe ngóng.
Thứ ba: Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nhất là bám sát chỉ thị, nghị quyết của Đảng về nêu gương, về bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm; đẩy mạnh đánh giá, sàng lọc, quy hoạch đội ngũ cán bộ, đảng viên đảm bảo theo yêu cầu hiện nay. Đồng thời, tạo điều kiện cho những người tâm huyết, đặc biệt là người đứng đầu, phát huy được phẩm chất “6 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung) trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Thứ tư: Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện thí điểm các đề xuất đổi mới, sáng tạo; chủ động phát hiện những vấn đề nảy sinh, kịp thời động viên, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hoặc xem xét, điều chỉnh, có quyết định phù hợp với tình hình thực tế; phát hiện sớm và kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh sai sót, vi phạm theo Kết luận số 14 KL/TW, góp phần để những đề xuất sáng tạo, đột phá của cán bộ vừa được thực thi vừa được bảo vệ bằng cơ chế.
Tóm lại, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm có ý nghĩa lý luận thực tiễn sâu sắc và mang tầm thời đại. Cụ thể hóa quan điểm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tực lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm, không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, tiền phong gương mẫu, gắn với nhiệm vụ chính trị, phấn đấu thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được phân công tại cơ quan và Chi bộ.