55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

(TG) - Đã 55 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi vĩnh hằng, nhưng những di huấn, tư tưởng của Người về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội vẫn vẹn nguyên giá trị, là sợi chỉ đỏ nhất quán, xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng, của dân tộc trong công cuộc đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập Tổ quốc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nông dân mùa gặt. Tranh : Đào Trọng Lý

1.

 

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là điểm hội tụ tinh hoa tư tưởng và mục tiêu hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trọn cuộc đời, Người luôn cống hiến, hy sinh vì mục tiêu cao cả đó. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc lịch sử. Di chúc kết tinh toàn bộ tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam, đưa ra những chỉ dẫn cụ thể, sâu sắc để cách mạng nước ta đạt thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người bày tỏ: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(1). Di chúc của Người đã trở thành kim chỉ nam định hướng con đường cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nội dung Di chúc khẳng định những vấn đề có tính chất chiến lược, căn cốt:

 

Một là, độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam, luôn gắn liền và là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội.

 

Từ “hành trình khát vọng”, qua lao động, học tập, nghiên cứu lý luận, nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều quốc gia trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc và hình thành thế giới quan và phương pháp luận cách mạng. Tất cả tâm nguyện, chí hướng của Người đều hướng vào mục tiêu, “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(2).

 

 

 

 

Với nhãn quan chính trị và tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra ánh sáng chiếu rọi từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với con đường giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ, chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ, đem lại cho nhân loại một xã hội tốt đẹp, tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no. Người không ngừng truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin về trong nước, vận động nhân dân “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(3), dẫn đến sự ra đời của Ðảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, sáng tạo, phù hợp giữa lý luận và thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc, phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

 

Tư tưởng, đường lối đó của Người thể hiện sự hài hòa của quy luật khách quan: Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để tiến tới giải phóng triệt để con người. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là con đường phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách mạng, là triết lý phát triển của cách mạng nước ta trong thời đại mới.

 

Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng sinh động, khẳng định quan điểm, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa nước ta từ “tình hình đen tối như không có đường ra”(4) đến “xé tan cái màn đen tối”(5) để bước ra ánh sáng, trở thành một nước “hoàn toàn tự do và độc lập”, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Thắng lợi đó đã đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục khẳng định, bảo toàn thành quả cách mạng qua cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm chống thực dân Pháp.

 

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ giá trị tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội được nâng lên tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình” (6). Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không thể tách rời công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội, phải “làm cho chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Bắc đều hơn hẳn miền Nam, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam và của cả toàn dân”(7).

 

Cho đến những năm tháng cuối cuộc đời, điều trăn trở nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là độc lập dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Sự nghiệp thống nhất đất nước chưa hoàn thành trọn vẹn, đồng bào miền Nam còn chịu cảnh đô hộ của ngoại xâm vẫn luôn là một nỗi đau sâu thẳm trong trái tim Người. Nỗi niềm đó Người gửi gắm lại cho Đảng, cho những người kế tục sự nghiệp cách mạng với lòng mong muốn, tin tưởng, quyết tâm vào thắng lợi cuối cùng. Người nhấn mạnh: “CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người... Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi... Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”(8).

 

Lời dặn của Người như lời hiệu triệu, cổ vũ, khích lệ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng đã chỉ rõ tính chất gian khổ, khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến, những nhiệm vụ cần làm để củng cố, giữ vững nền độc lập sau khi thống nhất.

 

 

Hai là, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc - một nền độc lập đích thực, triệt để.

 

Trên hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận với nhiều học thuyết, mô hình cách mạng khác nhau, Người rút ra kết luận: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(9). “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư(10) và Lênin”(11). Người xác định, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, chân chính, khoa học, phù hợp hơn ngoài con đường cách mạng vô sản. Cách mạng Việt Nam phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

 

Trong suốt hành trình cách mạng, nhận thức, tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ, thống nhất về lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, có sự phát triển sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa dân tộc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Trong Di chúc của Người thể hiện rất rõ đặc trưng, bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta mong muốn xây dựng, đó là: Hòa bình, thống nhất, giàu mạnh, dân chủ, ấm no, hạnh phúc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Nhân dân phải là người trực tiếp thụ hưởng sự giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc của đất nước. Đó là một xã hội tốt đẹp, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bảo đảm phúc lợi cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là người già, trẻ em, thương binh, gia đình liệt sĩ; một xã hội tạo mọi điều kiện cho người dân được tự do, bình đẳng, vươn lên phát triển bản thân, tham gia vào sự nghiệp cách mạng; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân; một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh, hòa bình, hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

Di chúc cũng chỉ rõ phương thức đi lên chủ nghĩa xã hội, phác thảo kế hoạch hành động của Đảng và nhân dân ta sau khi chiến tranh kết thúc, coi trọng khắc phục hậu quả, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi, phát triển các ngành nghề, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ kế cận sự nghiệp cách mạng, tạo mọi điều kiện cho người dân có động lực phấn đấu, vươn lên trở thành những con người mới, chủ nhân của xã hội tiến bộ. Đặc biệt, Di chúc khái quát hết sức cô đọng, sâu sắc về yêu cầu đổi mới và sự nghiệp đổi mới của Đảng, con đường cần thiết, tất yếu khi đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm, tiềm lực quốc gia còn yếu - “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”(12). 

 

Người yêu cầu, Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, lấy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản và văn hóa trong thể chế Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân làm sức mạnh tiêu biểu, nêu gương, thuyết phục nhân dân. Đây là yếu tố then chốt trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

 

 

Ba là, điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.

 

Xuyên suốt bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội luôn hòa quyện, gắn kết và được phản ánh một cách rõ nét, logic, biện chứng. Độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc đích thực, triệt để, song cần có các điều kiện bảo đảm: 

 

 - Phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất. Có như vậy, Đảng mới bảo đảm và phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, năng lực, sức mạnh, sức chiến đấu, khả năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(13). 

 

- Phải phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, đặc biệt là phát huy tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(14). 

 

- Phải đặt cách mạng Việt Nam trong mối liên hệ mật thiết với cách mạng thế giới, gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng đều là thắng lợi và thành tựu chung của cách mạng thế giới. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc... Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”(15).

 

Ngôi nhà sàn trong Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch đã đón tiếp rất nhiều đoàn khách trong và ngoài nước

 

2.

 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mọi tiến trình cách mạng. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn tiến công mạnh mẽ, ngày chiến thắng của dân tộc Việt Nam đang đến gần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mãi mãi đi xa, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng và toàn dân tộc. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng và nhân dân ta quyết tâm “Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước... Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”(16), kiên định, kiên trung, kiên quyết, không chùn bước, dao động.

 

Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên cả hai miền Nam - Bắc, nhân dân ta “anh dũng phấn đấu, hăng hái vươn lên, đạp bằng mọi trở lực, chông gai”(17), đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến, phát triển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, làm nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đưa non sông về một mối. Đất nước đã thống nhất hoàn toàn trên phương diện thể chế, chế độ chính trị, đưa cả nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội, bảo toàn trọn vẹn thành quả của Cách mạng Tháng Tám, hoàn thành di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”(18).

 

Thắng lợi này một lần nữa khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cho thấy sự phù hợp về cả lý luận và thực tiễn của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong kỷ nguyên mới. Khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển đất nước, và độc lập dân tộc chỉ được bảo đảm khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giành được độc lập mà không đi lên chủ nghĩa xã hội không những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Vì vậy, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm, phương châm, nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt và tất yếu.

 

Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại, song vẫn phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng trước mắt là cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, tạo tiền đề cơ bản để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đảng ta lãnh đạo triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất (1976 - 1980) và 5 năm lần thứ hai (1981 - 1985). Hạ tầng kinh tế - xã hội, các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục - đào tạo, giao thông, thủy lợi từng bước được khôi phục và mở rộng. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được quan tâm phát triển, đóng góp quan trọng vào sự phục hồi của nền kinh tế quốc dân, tạo bước đi cần thiết cho những giai đoạn tiếp theo.

 

Bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, trước những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đất nước đã hòa bình, giải quyết những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nhất là sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở ra chương mới cho sự phát triển của đất nước. Đại hội khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 nêu rõ: Toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.

 

 

Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới

 

 

Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nổi bật trên các khía cạnh: 

 

 (1) Lý luận về đường lối đổi mới, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện về mô hình, mục tiêu, đặc trưng, phương hướng, các mối quan hệ lớn mang tính quy luật cũng như những bước đi của thời kỳ quá độ. Tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là lựa chọn tất yếu, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của thời đại, tạo

Tài liệu đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025
LIÊN KẾT WEBSITE
Video